Uống Molnupiravir có hại cho gan không?

Ông Nguyễn Tấn L., 60 tuổi, bị viêm gan C, đã điều trị hồi năm ngoái, mấy hôm nay bị nhiễm COVID-19, bác sĩ cho toa mua thuốc Molnupiravir để điều trị.

Ông L. cầm đơn thuốc ra tới cửa, bỗng nhiên quay lại nói với bác sĩ: “Tôi nghe người ta nói bệnh gan không uống thuốc này được, nó độc cho gan, bác sĩ làm ơn cho tôi thuốc khác được không?”.

Bác sĩ trấn an: “Anh có bệnh nền, lại lớn tuổi, phải đánh chặn từ xa, diệt virus COVID ngay từ khi nó mới xâm nhập. Molnupiravir là thuốc đặc trị con virus này trong thời điểm hiện nay dùng bằng đường uống. Theo tôi biết, chưa có tài liệu nào cho là Molnupiravir hại gan”.

Các nhà khoa học nghiên cứu để chế tạo thuốc Molnupiravir, trong các thử nghiệm lâm sàng trước khi đăng ký lưu hành, độ cao của men gan aminotransferase huyết thanh là không phổ biến và không thường xuyên hơn so với giả dược.

Hơn nữa, trong số hơn 900 bệnh nhân được điều trị bằng Molnupiravir (800mg hai lần mỗi ngày) trong 5 ngày ở các nghiên cứu tiền cấp phép, không có trường hợp nào tổn thương gan.

Sở dĩ người nhiễm COVID-19 có men gan tăng là do ảnh hưởng của virus, chứ không phải do thuốc Molnupiravir.

Theo Nathanson MH, Lim JK xét nghiệm men gan 1.827 bệnh nhân trong một mạng lưới bệnh viện lớn của Hoa Kỳ vì nhiễm SARS-CoV-2, nồng độ ALT huyết thanh đã tăng lên trước khi nhập viện ở mức 19%, khi nhập viện ở mức 42% và cao nhất trong thời gian nhập viện là 62%, với 21% lớn hơn 5 lần đối với bệnh nhân có yếu tố nguy cơ là giới tính nam, tuổi già, béo phì và tiểu đường.

Theo nghiên cứu của Viện Quốc gia về bệnh tiểu đường và bệnh tiêu hóa và thận (National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases) Hoa Kỳ, có hai nguyên nhân Molnupiravir không gây hại cho gan là:

Thứ nhất, Molnupiravir không chuyển hóa ở gan. Molnupiravir là thuốc kháng virus bằng đường uống. Khi đi xuống ruột, nó được hấp thu vào máu và nhanh chóng chuyển hóa bằng con đường thủy phân thành N4-hydroxycytidine (NHC), chất này được đưa thẳng vào các mô của cơ thể, vào tế bào nhiễm virus, nó tham gia kết nối cạnh tranh với bộ gene của virus đang nhân bản, khiến cho gene virus bị lỗi, không thể tạo ra con virus nhân bản bình thường và tự bị tiêu diệt, từ đó cắt đứt quá trình sao chép của virus. Chất NHC của thuốc không được chuyển hóa tại tế bào gan, mà chuyển hóa tại tế bào bình thường của cơ thể bị nhiễm virus nên không ảnh hưởng tới chức năng gan.

Thứ hai, thời gian điều trị Molnupiravir là ngắn hạn, chỉ có năm ngày. Con đường đào thải Molnupiravir uống được thải trừ qua nước tiểu dưới dạng chất chuyển hóa có hoạt tính NHC. Thời gian giảm nồng độ của chất chuyển hóa có hoạt tính NHC của Molnupiravir là 3,3 giờ, có nghĩa là sau 3,3 giờ nồng độ thuốc giảm 50%, sau 6 giờ nồng độ thuốc giảm hơn 75%, sau 9 giờ nồng độ thuốc giảm hơn 87,5% và sau 12 giờ nồng độ thuốc giảm hơn 93,75%. Như vậy rõ ràng Molnupiravir tồn tại trong cơ thể không lâu để có thể ảnh hưởng không tốt tới chức năng gan.

Trái lại, nếu dùng Molnupiravir dài hạn, trên năm ngày thì sẽ có những tác dụng phụ không tốt. Các nghiên cứu trên mô hình động vật đã gợi ý rằng liệu pháp lâu dài có thể dẫn đến giảm tiểu cầu và thay đổi cấu trúc xương. Hơn nữa, những phát hiện trong các nghiên cứu đột biến cho thấy Molnupiravir có thể gây tổn thương DNA vật chủ ở phụ nữ mang thai và cho con bú, trẻ em dưới 18 tuổi và tinh trùng nam giới.